Tịnh Quán Tháp vô cùng to lớn, ở trong ấy, cái gì cũng có thể thấy được, có thể ảnh hiện ra cả những cảnh giới của mười phương thế giới, nó như ngay tại chỗ ấy.
Chẳng hạn muốn thấy trái đất của cõi ta bà dây, đưa mắt dõi theo chỉ chừng một hạt cát, nhìn mặt trời cũng vậy chỉ lớn hơn tí ít, nhưng nếu muốn nhìn rõ tình cảnh của một vùng nào đó như Châu Á chẳng hạn, thì cảnh ấy sẽ hiện lớn ra, muốn thấy vạn lý trường thành của Trung Quốc chẳng hạn hay thậm chí muốn nhìn kũ trong nhà nào ở đâu, sinh hoạt hiện giờ ra sao, đều hiện rõ vanh vách ra trước mắt, hay nói cách khác, chỉ cần nghĩ tới đâu, trong Tịnh Quán Tháp sẽ hiện rõ nơi ấy, việc ấy, cứ như là đài thiên văn vũ trụ tinh vi nhất vậy.
Vãng sanh đến Hạ Phẩm Trung Sanh là những người ở ta bà hàng ngày làm việc thiện, tích lũy phước đức, hoặc niệm Phật hồi hướng vãng sanh Tịnh Độ với sự gia bị của PHật A Di Đà, liền được cảnh giới này.
Vãng sanh đến hạ phẩm Thượng Sanh là những người ta bà tiến bộ hơn một bậc nữa, hằng giữ gìn ngũ giới, bát quan trai giới, tích cực hành thiện, bố thí, tu trì tương đối nghiêm cấm, mới vãnh sanh đến nơi này.
Tham quan sơ qua những nơi này, Bồ Tát đẫn tôi lên cao hơn một từng nữa, đến trung phẩm để viếng thăm.
VIẾNG TRUNG PHẨM LIÊN HOA
1. NƠI PHÀM THÁNH ĐỒNG CƯ
Ra khỏi ao sen hạ phẩm, tôi lại trì chú, thân như ngồi máy bay lướt gió mà bay lên, đột nhiên tôi có cảm giác thân mình đang từ từ lớn và cao lên. Hoa sen ở Trung Phẩm quả là to lớn, một đóa sen lớn cở 8, 9 trăm dặm, bằng như 1 tỉnh ở Trung Quốc, bán kính hoa sen có thể lớn bằng từ Tân Gia Ba đến nửa nước Thái Lan, toàn hoa sen có thể lớn vậy nên người ngồi trên đó phải lớn tương đương, ta đã biết cao tớ bậc nào chẳng cần phải nói, chư vị cũng biết là phòng xá cung điện ở đây phải lớn đến cỡ nào để tương ứng với hàng vạn chúng sanh vào trong nghe giảng pháp.
Bồ Tát Quan Âm nói:
- Ở Trung Phẩm đa số là Phàm Thánh Đồng Cư tứ chúng đều có (tứ chúng là tăng ni, thiện nam, tín nữ) người vãng sanh đến đây, những người đến đây hơn người Hạ Phẩm một bậc, lúc sanh tiền họ đều có ý niệm ra khỏi Tam Giới. Ở thế giới ta bà chịu khổ tu luyện ngoài việc tự tu, còn tích cực trong công việc Phật sự, hoặc đóng góp xây dựng chùa tháp, hoặc in ấn kinh sách, hoặc là trùng tuyên Phật pháp, dùng phương tiện khéo để khuyên hóa người khác tin Phật, tin pháp tin tăng, giảng giải chỗ nghi ngờ khó hiểu trong kinh Phật để người người tinh tấn tu hành, còn cố gắng bố thí, pháp thí, vô úy thí, nghiêm trì giới luật, biết phát lòng từ bi, hỉ xả, lâm chung nương Tây Phương tam thành tiếp dẫn, vãng sanh đến ao sen Trung Phẩm, nhưng mà cách tu trì như cách tu trì như trên vẫn có bậc sâu cạn, nên ở đây cũng chia làm ba bậc Thượng Sanh, Trung Sanh, Hạ Sanh.
Câu chuyện vừa dứt chúng tôi đã đứng trước một đại điện, tôi đảnh lễ chư vị Bồ Tát nơi đây, Bồ Tát Quan Âm liền dẫn tôi đi tham quan các nơi.
Ôi! Ao sen Trung Phẩm mới đẹp làm sao, so với Hạ Phẩm, sao sen Trung Phẩm không biết vượt trội hơn chục lần, bốn bên đều được xây bằng bảy báu, hoa sen trong ao phóng ra những tia sắc sáng lung linh cùng nhau ánh lên màu sáng chói lọi hấp dẫn vô cùng. Lạ hơn nữa là hoa này rất nhiều thần cánh sen, bên trong mỗi tầng đều hiện đình đài lầu các, bảo tháp, phóng mười mấy thứ ánh sắc, cảnh trí đẹp không sao tả xiết, người ngồi trên toà sen toàn thân hiện sắc óng ánh vàng hồng trong suốt, cũng phóng muôn đạo hào quang. Tất cả những người ở đây y phục cùng loạt giống như nhau, tuổi thì cở trên dưới hai mươi không thấy một đứa trẻ nào hay là một người già nào, bất giác tôi nhìn lại mình thì cũng giống như họ, riêng chỉ có Bồ Tát Quan Âm là giữ nguyên dáng Bồ Tát thôi.
Tôi hỏi Bồ Tát Quan Âm:
- Tại sao cái gì ở đây cũng có hào quang, màu sắc gì thì phát ra màu ấy, còn thân con người ở đây đều phát ra hào quang giống như nhau vậy?
Ngài trả lời:
- Ở đây tất cả mọi cái đều dưới sự tác động của Phật lực Đức Phật A Di Đà. Đức Phật A Di Đà phóng ra vô lượng quang minh phản ánh đến đây khiến tất cả đều phát lồ phóng quang chuyển biến, trong thân ông cũng như vậy. Trong mỗi cảnh giới của ao sen cách trang sức và dáng dấp đều giống nhau và cũng một màu, trừ phi chính mình có năng lực thần thông biến hóa ra các dạng khác, bằng không toàn thể đều thống nhất như nhau.
Bồ Tát còn cho biết tuy là Trung Phẩm, ở đây cũng có những đóa sen, những lầu các u trầm, ảm đạm, không phát ra hào quang, nhưng đây không phải là cảnh thực của Cực Lạc mà là cảnh giới vô thường mộng ảo của vọng tưởng dĩ vãng từng cúng sanh.
Bồ Tát chỉ cho tôi xem cái tòa lầu các ảm đạm gần đấy, bốn phía của lầu các là vườn hoa rất rộng, trăm hoa đua nở đủ màu sắc, chim chóc trên cành nhảy nhót hót vang cảnh trí như nhà trưởng giả hào phú. Gia đình này lớn bé già trẻ chừng hai mươi người, tòa đại sảnh có trang thiết thờ tam bảo, cha mẹ con anh chị em thân quyến tựu lại niệm Phật tụng kinh vô cùng thuần thành và tinh tấn. Lúc ấy Bồ Tát Quan Âm bảo tôi:
- Cái gia đình này hay bố thí, làm lành từ bi hỷ xả, một số đã vãng sanh Trung Phẩm liên hoa, nhưng vẫn cứ vọng nhớ tình cảm xa xưa cho nên thành vọng cảnh luôn như vậy . Bồ Tát còn nói:
- Trong 9 phẩm hoa sen, mỗi phẩm đều từ dưới lên trên, khi tu được rồi thì hoa sen sẽ được dời lên ao phẩm trên. Cũng giống như tham thiền vậy, sơ thiền tu rồi lên nhị thiền, nhị thiền rồi lên tam thiền, rồi mới tới tứ thiền, lý ấy là như vậy.
Đột nhiên tiếng chuông reo vang, lầu các nầy thoáng cái đã biến mất, tất cả trở lại thân thanh niên khoảng 20 tuổi, hiện sắc óng vàng hồng trong suốt, bề ngoài trang sức đều đồng loạt giống nhau, và số người càng ngày càng đông, không thể kể hết, hình thành một hội trường to lớn.
Bồ Tát Quan Âm nói:
- Hôm nay ở đây do Bồ Tát Đại Thế Chí và Thường Tinh Tấn Bồ Tát giảnh về kinh Pháp Hoa, ông đi nghe chứ!
Tôi trả lời:
- A Di Đà Phật, con rất thích kinh Diệu Pháp Liên hoa thưa Bồ Tát.
Nói rồi tôi cùng Bồ Tát Quan Âm bước lên hội trường của Đài giảng, bốn bên đài giảng đều là hàng rào như gắn những hạt châu phóng ra trăm ngàn tia sáng chiếu rọi lung linh, hai bên có bảy hàng cây báu cao thấy mây xanh, trên cây cũng có đình đài lầu cát và đông đảo các Bồ Tát tập trung trên ấy để nghe giảng kinh, giảng đài này được xây bằng thất bảo lưu ly cao không biết bao nhiêu trượng, vô cùng trang nghiêm.
Bồ Tát Quan Âm dẫn tôi lên đài, tôi đảnh lễ hai vị Bồ Tát giảng sư rồi hai vị chủ tôi ngồi kế bên. Đại Thế Chí Bồ Tát lên bục giảng, lúc ấy không biết từ đâu khói hương xông lên, thơm ngát lan tỏa. Đâu đây du dương tiếng nhã nhạc lưng trời, những con chim muôn màu muôn vẻ nhiều vô số đang bay lượn và hót lên thánh hiệu niệm Phật. Khi tất cả lễ bái xong, Bồ Tát Đại Thế Chí đứng dậy tuyên bố nội dung buổi giảng:
- Diệu Pháp Liên Hoa kinh là căn nguyên của chư Phật Thế Giới Hoa Tạng, là căn bản để thành Phật, hễ muốn thành Phật đạo, cần phải tu kinh học kinh điển này . Lần giảng trước là giảng tiết thứ nhứt, thế nào là kinh Diệu Pháp Liên Hoa, kinh Diệu Pháp Liên Hoa là vô lượng bảo, hôm nay sẽ nói đến tiết thứ hai về tác dụng của Diệu Pháp Liên Hoa kinh... Ðại khái nói khoảng một tiếng đồng hồ.
Tôi nghe xong trong lòng có cái thắc mắc, kinh Diệu Pháp Liên Hoa ở thế gian lưu truyền về văn tự, và câu kinh không đồng nhau, tôi bèn hỏi Bồ Tát Quan Âm. Ngài cho biết:
- Kinh văn của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa ở thế gian tương đối cạn dễ hiểu, ở đây lời lẽ huyền bí hơn, diệu mầu hơn, tuy dù có huyền bí hay diệu mầu hơn nhưng ý nghĩa chính cũng cùng một thứ thôi, có thể nói như thế này, người trời không hiểu cảnh giới Bồ Tát, La Hán không hiểu cảnh giới Bồ Tát, Bồ Tát không hiểu cảnh giới của Phật, ông nghe Bồ Tát giảng kinh chỉ phát ngôn bằng một tiếng nói, trăm ngàn tiếng nói cả nước đều được chuyển đến người nghe bằng độc nhất âm điệu của nước mình, đó là ngôn ngữ Đà La Ni tam muội.
Bồ Tát Thường Tinh Tấn giảng xong đất trời hiện ra cảnh tượng, không phải nói là một bức tranh, một bức tranh vô cùng đẹp mắt không thể nói hay nghĩ bàn được, rồi từ lưng trời rải xuống là là những đóa hoa tươi thắm đủ màu sắc, và từ hoa chiếu ra muôn đạo hào quang tỏa ra khắp nơi lung linh tuyệt vời. Trong đài giảng tất cả thanh niên đồng thời đứng dậy lấy vạt áo đựng đầy hoa, lúc ấy nhạc trời đồng trổi lên du dương, diệu vợi, âm thanh không biết từ đâu vọng ra vô cùng hùng tráng, đột nhiên cả ngàn, cả vạn thanh niên áo đỏ ấy đồng loạt lay mình biến thành thanh nữ mặc váy hồng đào, áo màu cốm, lưng đeo đai vàng óng lần lượt vươn lên múa hát vui thật là vui. Không bao lâu tất cả lại biến thành những đóa hoa sen hiện ra từng sắc màu khác nhau, ánh sáng củ hoa sen tủa ra thật là đẹp, sen trắng ánh sáng trắng, sen vàng ánh sáng vàng, mỗi hoa phát ra tia sáng của bản chất cánh sen ấy. Bây giờ không còn thấy bóng người nào nữa, thế rồi trên hoa sen lại hiện hình Bồ Tát ngồi ngay ngắn, rồi tiếp đến lại biến hoa sen thành tháp vàng tháp bạc rọi muôn ngàn hào quang, cảnh sắc nơi đây biến hiện vô cùng tráng lệ và hấp dẫn.
Tôi đang ngắm nhìn một cách xuất thần, tự nhiên trên hư không cả ngàn cả vạn thanh nữ mặc áo màu cốm đi vào, họ đi xuyên tường xuyên vách, tà áo họ lất phất bay từ trên cao cùng nhau bước xuống. Tôi lấy làm lạ bèn hỏi Bồ Tát Quan Âm về việc đi xuyên qua vách. Bồ Tát Quan Âm cho biết:
- Thế giới Cực Lạc do nguyện lực của Đức Phật A Di Đà mà hình thành, thánh chất ấy không phải là vật chất, cho nên bất kỳ đình đài, lầu các điện hay bảo tháp núi sông hoa cỏ, cây cối đều trong suốt trong vật chất do đó không có chướng ngại, có thể đi xuyên qua một cách tự nhiên, ông không tin cứ thử một lần xem.
Tôi y lời chạy qua vách đại điện để thử, rồi đến cột lớn, lan can v.v... thân tôi đều đi xuyên qua được. Khi tôi tiếp giáp với vật đó thấy vật đó nhưng nó không cản trở hay vướng vấp thân thể tôi, cũng như ở thế gian chúng ta biết khối nước do mặt thoáng hồ nước nhưng đưa tay vào nước rất tự nhiên không bị cản lạị Tiếp đó, Bồ Tát Quan Âm dẫn tôi đến hai chỗ kỳ quan nữa là Bát Đại Cảnh Sơn và Hoa Tạng Thế Giới để tham quang.
VIẾNG TRUNG PHẨM LIÊN HOA
2. BÁT ĐẠI CẢNH SƠN
Vãnh sanh đến trung phẩm hạ sanh một số đã rất ít vọng tưởng vọng niệm, hoặc giả không còn vọng niệm, dáng dấp bên ngoài của họ đều biến thành cỡ tuổi mười sáu đến hai mươi, y phục không phân biệt nam nữ, hành động của họ cũng là tập thể, mỗi ngày cúng dường thập phương chư Phật. Hoa sen chỗ này rất nhiều tầng cánh, những cánh sen màu sắc đều tuôn ra muôn thứ hào quang thật tuyệt đẹp, so với hạ sanh thì khác xa nhau lắm.
Bát Đại Cảnh Sơn là tám núi cảnh lớn, tám núi này tượng trưng cho tám thức của con người: nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt na thức, a lại đa thức, hợp xưng bát thức tâm điền. Phật A Di Đà thiết lập cảnh này là mong những người trước khi bước vào đất Tịnh Độ này cần khiến cho tám thức của mình tu thành chữ "KHÔNG".
Núi thứ nhất là Quang Minh Cảnh Sơn tượng trưng cho nhãn thức, trong núi ấy hình ảnh của thế giới mười phương, tất cả và tất cả đều có thể nhìn tường tận được. Thí dụ như cần xem một chúng sanh nào ở thế giới ta bà đang sống thế nào, đời quá khứ thế nào, kiếp tới nữa thế nào, chẳng hạn như kiếp trước là heo, là nô tì ... kiếp trước nữa là gia đình trưởng giả, dế vương, tướng quốc v.v... thậm chí tình hình đất Phật khác đều có thể thấy rõ mồn một.
Núi thứ hai gọi là Thanh Vân Sơn tượng trưng cho nhỉ thức. Vừa đến núi này là lỗ tai ta có thể nghe được tất cả âm thanh của mười phương thế giới, không phải nghe cùng một lúc đâu, ta nghĩ muốn nghe ở đâu hay nghe tiếng gì thì âm thanh vang vọng nhận biết rõ ra, còn biết Đức Phật nào đang giảng kinh điển nào.
Núi thứ ba gọi là Vị Phương Cảnh Sơn tượng trưng cho chỉ tỉ thức. Trên núi này ta có thể ngửi được mùi vị của bất cứ địa phương nào, còn có thể biết cả nội dung của cả mùi ấy nữa, chẳng hạn như mùi hóa chất ấy gồm những hợp chất gì, vàng, đồng, bạc thau sắt v.v...
Núi thứ tư gọi là Âm Thanh Cảnh Sơn tượng trưng cho thiệt thức, nhận biết tiếng từ miệng lưỡi người nào nói ra và ý nghĩa tiếng ấy ra sao, từ cảnh giới Phật Bồ Tát Thinh Văn Duyên Giác, Trời, Người, A Tu La ... thậm chí tiếng ngạ quỹ, súc sanh, địa ngục đều nghe hiểu.
Núi thứ năm gọi là Kim Thân Cảnh Sơn tượng trưng cho thần thức. Trong núi này có thể bằng xúc giác nhận hiện ra tất cả sự vật, có thể thấy tất cả rất nhiều kim thân của thế giới ta bà, 32 tướng v.v... đều rất là rõ.
Núi thứ sáu gọi là Ý Thức Cảnh Sơn tượng trưng cho ý thức. Núi này có thể gặp vô số chư Phật từng kiếp một tu hành như thế nào, và cả chính mình hàng trăm kiếp, hàng ngàn kiếp trước là gì, thân thế ra sao, tu hành ra sao mọi thứ đều hiện ra .
Núi thứ bảy gọi là Tế Minh Cảnh Sơn tượng trưng cho Mạt na thức. Đây là cảnh giới vô cùng đặc biệt gồm cả sáu khả năng ở sáu núi đồng loạt thể hiện, có thể nói ở núi này ta muốn thấy hay biết bất kỳ cái gì cũng hiện ra rõ rệt.
Núi thứ tám gọi là Vô Biên Cảnh tượng trưng cho thức thứ tám A Lại Đa Thức. Cảnh giới này ta có thể ý niệm và nghe thấy được đầy ¡p cả hư không giới tất cả mọi sự việc, quá khứ xa gần, hiện tại và cả vị lai xa gần, nếu chúng ta muốn biết chỉ khơi niệm là biết ngày không khó khăn tí nào.
Phòng triển lãm về Hoa Tạng Thế Giới
Người vãng sanh đến Trung Phẩm Trung Sanh là người trước đây ở thế giới ta bà đối với các việc nhận thức về Phật pháp và cách tu trì tương đối sâu hơn, đồng thời về mặt hành thiện và bố thí có thể nói là không chê được, có thành quả khá lớn. Do đó thành tựu được căn lành lớn.
Trung Phẩm Trung Sanh có rất nhiều phòng ốc và tháp lớn. Khung trời nơi đây mỗi ngày đều mưa hoa, thường cứ hừng sáng chúng sanh nơi đây đều ra hứng đầy hoa tươi đẹp và thơm ngát bằng vạt áo mình để đi cúng dường chư Phật mười phương, đồng thời từ lưng trời vang vọng tiếng nhạc du dương trầm hùng câu thánh hiệu Phật A Di Đà, khó mà diễn tả hết cái tuyệt vời của cảnh này. Đúng là như kinh điển nói, muôn ngàn âm nhạc của vua chúa ở thế gian không bằn gphần trăm ngàn âm nhạc của Chuyển Luận Thánh Vương. Muôn ngàn âm nhạc của cõi Chuyển Luận Thánh Vương không bằng âm nhạc của Trời Đao Lợi. Muôn ngày âm nhạc của Trời Đao Lợi không bằng một âm nhạc của hàng cây báu trên A Di Đà Phật Cực Lạc Quốc Độ.
Chúng sanh của Trung Phẩm Trung Sanh toàn thân đều phóng ra muôn đạo hào quang, sắc óng vàng hồng, hiện thân trong suốt không bị chướng ngại, do đó trong phút chốc họ có thể đi đến nước chư Phật khác cúng dường mười phương Phật, và cũng trong chốc lát lại trở về chỗ cũ, nếu khi sanh tiền không tạo nhiều công đức khó mà vào được phẩm này.
Chúng sanh đến được quả vị Trung Phẩm Trung Sanh họ đã rất ít vọng tưởng, thậm chí rất đông đã dứt tuyệt vọng tưởng, còn về sự ao ước được ăn uống hầu như ít thấy lắm, chứ không giống ở Trung Phẩm Hạ Sanh họ còn thèm các loại bánh và mật hoa. Khi tu đến trình độ càng cao thì sự thèm khát bớt đi rất nhiều.
Trung Phẩm Trung Sanh có một nơi gọi là cái quán triển lãm hay là phòng triển lãm về Thế Giới Hoa Tạng. Trong phòng triển lãm này có thể thấy các dạng và các cách tu luyện của chư Phật và Bồ Tát của nhiều đời nhiều kiếp. Trong phòng triển lãm ấy có rất nhiều tầng, mỗi tầng triển lãm bày ra quá trình tu trì của một vị Phật hay một vị Bồ Tát nào đó. Thí dụ như muốn xem Phật A Di Đà trước đây là ai (Pháp Tạng Tỳ Kheo) cha là vị nào (Thế Tự Tại Vương Như Lai), Ngài tu pháp nào, pháp nguyện gì, kiếp trước nữa là ai, 100 kiếp nữa ra sao...v.v... rồi đến tầng khác chẳng hạn có thể thấy Đức Phật Thích Ca, Đức Phật Dược Sư, Bồ Tát Quan Âm v.v... từng đời, từng kiếp sống ra sao, ở những nơi nào, nói câu gì, gặp những ai, quá trình tu hành và cuộc sống trong từng đời... lần lượt cho thấy không sót một phần nào. Chúng ta có thể tìm thấy ở đây lịch sử chi tiết của từng vị Phật và Bồ Tát của cả Thế Giới Hoa Tạng.
VIẾNG THƯỢNG PHẨM LIÊN HOA
1. HOA NỞ GẶP PHẬT
Rời khỏi Trung Phẩm Trung Sanh, Trung Phẩm Thượng Sanh, tôi được tiếp dẫn đến ao sen Thượng Phẩm. Khi trì chú lướt đi, tôi lần lần cao lớn lên như dáng dấp lúc đến đảnh lễ Đức Phật A Di Đà.
Bồ Tát Quan Âm bảo tôi:
- Chúng sanh vãng sanh đến Thượng Phẩm là khi ở ta bà tinh tấn tu hành, giữ gìn giới thanh tịnh, siêng năng nghiên cứu điển tích chư Phật, dũng mãnh đoạn trừ 10 nghiệp ác, hành 10 việc lành, nương theo pháp môn mình tu mỗi mỗi đều thực hành thấu đáo, cật lực dấn thân, mười năm như buổi đầu không hề lui bước đến lúc thịt rả xương tan, bỏ thân này mới thôi, ngoài ra còn tạo thêm những công đức lớn bên ngoài nữa, hành bố thí lớn, trong phút cuối cùng liền được đón về Thượng Phẩm. Những chúng sanh này cơ hồ không còn vọng tưởng nữa, sáu căn đều thanh tịnh cũng có thể nói đều đạt cảnh giới Bồ Tát, có thể tự do biến hóa, du hí thần thông. Thí dụ như một nhóm chúng sanh Thượng Phẩm tu một chỗ, nếu họ muốn biến thành những đóa hoa thì họ liền thành đóa hoa, muốn thành tảng đá liền thành tảng đá, muốn thành bảo tháp liền thành bảo tháp, muốn thành cây cổ thụ liền thành cổ thụ.
Hoa sen trên Thượng Phẩm này nhỏ nhất cũng cỡ ba tỉnh, nói cách khác lớn bằng ba lần Mã Lai Á. Tôi được dẫn đến ao sen Thượng Phẩm, ao ở đây đích thực trội hơn ao ở Hạ Sanh và Trung Phẩm nhiều, chung quanh ao tráng lệ hùng vĩ hơn. Từng tầng từng tầng lan can vây lại phát ra muôn đạo hào quang, ngoài ra từ hoa sen tỏa ra muôn ngàn hương thơm. Trong ao có nhiều tháp lớn, hình dáng như núi cao vậy, tháp có nhiều góc cạnh phóng ra muôn ánh sáng đủ màu sắc uyển chuyển tuôn ra. Trong ao còn có nhiều cầu màu sắc đen vô cùng. Ao lớn chưa từng thấy, tầm nhìn không thấy tới bờ bên kia. Trong ao có rất nhiều sen, không có sen nào úa héo cả, tất cả hoa sen đều phát ra ánh sáng lung linh rực rỡ và tỏa hương thơm ngát. Nơi đây còn có những bảo cát bằng cả ngàn cả vạn hạt châu lấp lánh đủ kiểu, hoa thì đếm không hết số. Mỗi tầng lại đầy dẫy những bảo tháp, đình đài, lầu các, thật là hấp dẫn vô cùng, người ngồi ở trên hoa sen ấy toàn thân tỏa sáng ánh hào quang vàng óng, y phục rất hoa lệ cũng phát ra tia sáng màu rất đẹp.
Bất chợt Bồ Tát Quan Âm hỏi tôi:
- Ðây có một vị tên là Ấn Quang Pháp Sư, Ngài là một trong ba vị cao tăng Trung Quốc thời cận đại ông có quen không?
Tôi vội trả lời:
- A Di Đà Phật. Thưa Bồ Tát ông ta ở đâu? Tôi đã nghe qua danh và rất quý trọng Ngài nhưng chưa được dịp gặp.
Tôi đang nói chuyện thì một thanh niên chừng ba mươi tuổi ngoài bước ra khỏi hoa sen và hiện nguyên hình tướng Ấn Quang Đại Sư. Chúng tôi gặp mặt nhau mừng lắm, cùng đảnh lễ rồi Ấn Quang Đại Sư nói thao thao bất tuyệt. Ông nói nhiều lắm, tôi quên mất một số, chỉ nhớ lại là ông ta nhắn đi nhắn lại tôi phải truyền đạt tới đồng đạo ở ta bà là phải lấy giới làm chuẩn, nghiêm trì giới luật, nhất tâm niệm Phật, tin hạnh nguyện, tất vãng sanh Tây Phương không sai. Ngoài ra ông còn nhắc nhở những người tu hành đừng tự cho là mình thông minh sửa đổi luật nhà Phật, quy chế chư Tổ, nhất là chớ nên hô hào cải cách duy tân, tái phải oai nghi giới luật.
Chúng tôi cùng bước xuống đài sen đưa đến lầu các lớn, trên đường đi các chim chóc đậu trên cành vàng lá ngọc líu lo ca hát, hòa với âm nhạc trời du dương, thêm vào là âm thanh thướt tha của tiếng niệm Phật khắp nơi. Hoa nở rộ muôn màu muôn vẻ, hương thơm xông ngát, từng đóa hoa cánh hoa chiến ánh sáng lung linh, ngoài ra lại còn rất nhiều loại đèn châu báu, đèn mã não, đèn lưu ly từng hàng từng hàng ngay ngắn, các loại đèn lấp lánh ánh sáng màu sắc đẹp thôi nói không hết ý. Vào trong lầu các cái gì cũng lấp lánh ánh sáng màu sắc lung linh khiến tôi ngây người ra ngắm nghía. Ấn Quang Đại Sư đi với chúng tôi lên lầu, trên lầu có các loại kính bằng thủy tinh, ở giữa có một cái kính lớn nhất gọi là chiếu thân kính.
Bồ Tát Quan Âm giới thiệu:
Kính này có thể soi thấy nguyên hình của từng người, xem bản tánh đã thanh tịnh hay chưa? Có còn vọng tưởng vọng niệm nữa không? Soi một cái là thấy ngay.
Trên lầu có ghế ngồi ngăn thành hai hàng lối, các nghế ngồi đều làm bằng bảy báu sáng lấp lánh. Trên bàn gần đó bày vật gì đó lạ lắm tôi không nhìn ra là gì.
Bồ Tát Quan Âm hỏi tôi:
- Ông thấy đói rồi hả?
Tôi thấy đúng là có cồn cào đói. Tôi nói:
- A Di Đà Phật. Thưa Bồ Tát, ở đây có gì ăn không ạ.
Ngài bảo:
- Về thức ăn thì cũng như ở Hạ Phẩm vậy, ở đây ông muốn ăn gì sẽ có dọn ra.
Tôi nói:
- Vậy thì hay quá, tôi chỉ ước được ăn cơm trắng với canh rau cải trắng thế thôi.
Tôi vừa nói dứt cơm trắng và tô canh còn nóng hổi được bày ra ở bàn, đũa muỗng cũng đầy đủ. Tôi hỏi:
- A Di Đà Phật. Thưa chư vị không ăn bây giờ sao?
Bồ Tát trả lời:
- Ðây không có ai ăn đâu, ông cứ tự nhiên ăn đi.
Tôi nghĩ mà mắc cỡ quá, nhưng cũng ngồi vào ăn. Tôi ăn no nê rồi để gọn bát đũa lại, tự nhiên bát đũa muỗng đều biến đi đâu mất.
Tôi thắc mắc hỏi Bồ Tát, Ngài nói rằng:
- Tại ông vọng tưởng bụng đói, và khao khát muốn ăn cũng giống như ở thế gian chiêm bao vậy. Trong chiêm bao cái gì cũng có khi thức tỉnh ra rồi chẳng có cái gì cả. Ông vọng tưởng ăn, thức ăn liền đến, ăn no rồi vọng tưởng về ăn không còn, những gì thuộc về vọng tưởng cũng vì vậy mà biến mất. Tôi gật đầu hiểu ra.
Ngài nói thêm:
- Tự tánh thanh tịnh thì không thèm ăn, không thèm khát, không thèm muốn cái gì ở trong hư không, thật ra trong hư không vốn là không có cái gì. Vọng tưởng dấy lên cũng giống như sương mờ được un lên vậy, cái ý ấy ông từ từ nghiệm ra, nếu mà lãnh hội được thì sẽ hiểu ra tam muội của việc ấy.
Người vãnh sanh về sen Thượng Phẩm vọng niệm ít nhất, hầu hết đều là Phật tánh chơn như, đều chứng quả vị Bất Thoái Chuyển Bồ Tát, trong chốc có thể nương nguyện lực Phật A Di Đà biểu hiện ra vô số hoa tươi đẹp, trái cây và phẩm vật cúng dường v.v... để đi cúng dường chư Phật mười phương. Còn đến giờ thuyết pháp nghe kinh thì cả ngày vạn ức Bồ Tát đều ngồi ngay ngắn trên hoa sen, hoặc trên lầu, trên bảo tháp, trên bảy hàng cây báu, trực tiếp nghe lời giảng của Đức Phật A Di Đà.
Tôi hỏi Bồ Tát Quan Âm:
- Người ở trái đất vãng sanh về thế giới Cực Lạc này rất đông, tại sao thân quyến của họ đều không nhìn thấy vậy? Ngài bảo:
- Người địa cầu phần nhiều còn vọng nghiệp che lấp, rất nhiều cái gần hơn còn chưa nhìn thấy, nếu họ chịu nhất tâm niệm Phật không dấy vọng tưởng, tâm như hư không, thì người địa cầu cũng có thể nhìn thấy thế giới Tây Phương Cực Lạc được.
Tôi thừa cơ hỏi hỏi Bồ Tát:
- Cầu Ngài chỉ dạy: Thưa Bồ Tát “Cần phải niệm Phật ra sao mới là tốt nhất?” Mới có thể tu nhanh nhất?
Ngài bảo:
- Cần thiền định song tu, nhất tâm niệm Phật, niệm Phật tham thiền gọi là tịnh độ thiền.
Tôi hỏi:
- Thưa Bồ Tát xin Bồ Tát chỉ cho biết tu tịnh độ thiền bằng cách nào?
Ngài gật đầu chỉ dạy như sau:
- Số người có thể chia thành hai nhóm như cách tu của chúng sanh Thượng Phẩm Tây Phương Cực Lạc đây, nhóm trước niệm hai câu A Di Ðà Phật, nhóm sau mặc niệm lắng nghe, sau đó nhóm sau niệm hai câu, nhóm trước mặc niệm lắng nghe, tu trì như vậy đã không mệt nhọc, lại không ngừng niệm, tâm và khẩu như nhau. Phật tánh tự nhiên lộ, tính tất sanh định, định tất sanh huệ.
2. VIẾNG THÁP LIÊN HOA
Bồ Tát Quan Âm hối thúc: "Thôi lẹ đi, thời giờ eo hẹp lắm. Tôi dẫn ông đi thăm viếng Tháp Liên Hoa, là tháp lớn của Phật A Di Ðà".
Lại lướt qua thêm my tòa lầu các đến vạn tầng. Những tháp này có bao nhiêu góc cạnh cũng không đếm hết được. Tất cả các tháp đều phóng ra muôn đạo hào quang, sắc màu uyển chuyển ánh lung linh, đẹp vô ngần. Trong tháp vang vọng ra tiếng niệm Nam Mô A Di Ðà Phật, liên tục hai câu đầu nghe rất trong vút. Câu đầu tiên nghe rất cảm động và tha thiết như con réo mẹ cứu giúp vậy, còn câu thứ hai nghe trầm hùng rất quyết tâm và thân thiết.
Tòa tháp này dành riêng cho chúng sanh Thượng Phẩm Trung Sanh đến dạo chơi. Tháp lớn lắm, khó mà hình dung ra được. Có thể lớn cở my ngàn my vạn độ lớn của trái đất chúng ta ở, còn độ cao thì không thể tính được. Trong tháp có rất nhiều cung điện, các loại màu sắc đều có thể phát hào quang trong suốt. Các chúng sanh Thượng Phẩm Trung Sanh đến đây đều có thể xuyên tường tự do ra vào, không bị ngăn trở. Muốn lên muốn xuống đều tùy tâm tưởng thì sẽ đến ngay vị trí. Trong tháp có thể nói muốn gì có nấy, trong y có thể thấy tất cả cảnh tượng của một chúng sanh của Hoa Tạng thế giới, có thể thấy được đất Tịnh Ðộ của hằng trăm, hàng vạn đức Phật khắp nơi. Cảnh vật nơi đây thật là tuyệt vời khó mà dùng bút mực tả cho hết được.
Chúng sanh Thượng Phẩm Trung Sanh nếu muốn đến những nơi Tịnh Ðộ của vị Phật nào cũng đến trong nháy mắt rất dễ dàng. Chúng tôi vào trong tháp Liên Hoa, thân như ngồi thang máy vậy, xuyên thấy từng tầng, không vướng chi cả, hoàn toàn trong suốt hết. Trong các tầng của tháp có từng nhiều người đang niệm Phật, tất cả là những thanh niên khoảng 30 tuổi. Mỗi một tầng cách ăn mặc đều khác, đại khái chừng 20 loại màu sắc. Tất cả những người ở đây đều là nam, không thấy một người con gái nào. Tất cả những người thanh niên ấy ngồi ngay ngắn nơi đài sen của mình niệm Phật Bồ Tát Quan Âm. Ở đây tu hành tinh tấn lắm trong ngày sáu thời: hai thời dành niệm Phật, hai thời chỉ tịnh, hai thời nghỉ ngơi, bây giờ thì họ đang niệm Phật.
Chúng tôi tiến vào tầng giữa, chỉ thấy từng hàng người ngồi ngay ngắn trên bồ đoàn của mình tham thiền niệm Phật, rất đẹp mắt, có vị ngồi ngay giữa phòng là vị đại Bồ Tát đang ở đây dẫn chúng niệm Phật. Người nào niệm giỏi thì trên đầu phát ra những tia sáng, trong tia sáng có vô số những vị hóa Phật, như Ðức Phật A-Di-Ðà vậy, trong mỗi tia sáng số hóa Phật vô số ức vị, vị Ðại Bồ Tát ngồi giữa dân chúng ấy cũng có nhiều hóa Phật nương tia sáng hiện các loại chim bay bay lại ở tên chóp tháp, hoặc ở đại sảnh bay đến cũng cùng nhau niệm Phật; bay như vậy mà không mảy may hỗn loạn. Trong tháp có rất nhiều đèn trân châu, đèn lưu ly đều phát ra sức sáng tối đa, có loại đèn tròn to, tự động chuyển biến các dạng màu sắc.
Tóm lại cảnh trí nơi đây nói không hết cái lung linh uyển chuyển đẹp. Ði cúng dường mười phương chư Phật cũng tập trung ở đây mà đi. Tại nơi đây có thể thấy được bất cứ thế giới nào mà toàn thế giới Hoa Tạng cũng hiện ở đây. Tất cả chúng sanh, tất cả Phật Thánh đều hiện rõ ở đây cả.
A-Di-Ðà Phật Chỉ dạy
Thăm xong chín phẩm hoa sen rồi, tôi lại được đưa trở về trước Ðức Phật A-Di-Ðà. Tôi quỳ trước Ngài chí thành đảnh lễ, cầu Phật gia bị và chỉ dạy, từ chính kim khẩu Ðức Phật A-Di-Ðà từng câu từng câu một vô cùng thận trọng mà nhắc nhở tôi:
- Phật Tánh của chúng sanh vốn là bình đẳng, tùy nghiệp mình làm đảo điên ý thức, lấy giả làm thực tạo nhân chịu báo, trôi lặn trong sáu nẻo luân hồi không dứt, chịu khổ vô vàn. Bốn mươi tám nguyện ta thề hằng độ chúng sanh, trai gái già trẻ, lấy tín nguyện hạnh nhất tâm bất loạn, tịnh độ thiền, chỉ cần mười niệm quyết được vãnh sanh.
Tôi quỳ lễ bái nữa, Ngài dạy tiếp:
- Con có nhân duyên với thế giới ta bà, con muốn độ cha mẹ nhiều đời, anh em chị em, thân bằng quyến thuộc, con cần dặn họ giữ giới làm lành, lấy giới làm thầy, dạy học tịnh độ thiền, thiền định song tu. Con cần dặn kỹ các loại đạo giáo Thích, Ðạo Nho, Ðạo Gia Tô, Hồi Giáo v.v... các giáo cần cùng nhau giúp đỡ, cùng nhau khích lệ, đừng nói dèm pha nhau, đừng phỉ báng nhau, đừng nói những lời tà chánh. Người tà, ta đạo, người ma, ta cao, người thấp, ta quý, đừng soi tìm cái dấu vết sai sót nhỏ của nhau mà phỉ báng không ngừng, đây chỉ là hành vi diệt căn lành; bào mòn thì giờ quý báu vào chuyện không đâu, thực chẳng đáng.
- Cửa Phật quảng đại, tám vạn bốn ngàn pháp môn, Ðạo nào cũng thực, có thể tu trì tà biến được ra chánh, ma biến được ra đạo, nhỏ có thể đi về lớn, cùng nhau đùm bọc nương nhau tinh tấn tu hành pháp môn của mình, sửa sai của mình, hành cái lành của mình mới đúng là chánh tông huệ mạng của chư Phật.
Ngưng một lúc Ngài bảo: - Thôi con về là vừa rồi.
Tôi bái lễ tạ, lễ ba lần và lui gót.
Trên đường về tôi vẫn cứ bay bay không thấy Nam Thiên Môn, đi bằng trì chú và nương hoa sen đi thật nhanh, đến ngay Trung Thiên La Hán tôi ngừng niệm chú thì hoa sen biến mất, lại thấy vị đồng tử hôm trước đưa nước trong cho uống. Thầy tri khách bảo tôi vào phòng nghỉ tí đã, tôi vào phòng nghỉ, thoáng cái đã say say trong giấc ngon lành.
Về Ðến Thế Gian
Lúc tôi tỉnh lại loay hoay không biết mình đang ở đâu, không thấy người trời, không thấy Bồ Tát, không thấy tòa đại diện cũng không thấy nơi nào phát ra hào quang nữa ... Tôi nhớ lại mới ba giờ khuya hôm qua tôi đi dạo cả ngày và giờ lại tối khuya nữa rồi chắc chừng hai mươi tiếng đồng hồ đi tham quan thích thú quá đi. Ở đây sao mà tối thui như mực, đưa tay không thấy ngón, tôi cảm thấy như đang ở trên một tảng đá lớn của động núi cõi nào, lần mò hồi lâu mới có tia sáng hừng đông, tinh thần phục hồi ngay như thường, tôi thấy ra đã ở thế giới ta bà.
Ở trong động không thấy lối ra, tôi gọi, tôi nhẩy, tôi khát, không ai trả lời. Cuối cùng tôi cũng tìm được lối ra ven theo đường núi xuống dưới đi bộ 20 cây số đến đường Xích Thủy gặp người đi đường tôi bèn hỏi ra, hú vía kinh hồn, thì ra bây giờ là ngày 8 tháng 4 năm 1973 rồi. Tôi bấm đốt ngón tay đếm, té ra tôi rời khỏi nhân gian hơn sáu năm năm tháng...
Tôi lầm bầm niệm trong lòng, Nam Mô A-Di-Ðà Phật, kẻ giác thành Bồ Tát, người mê ấy chúng sanh, Phật pháp có túc thân, lúc gặp duyên thì độ, tôi phải thừa kế ý chí của ân Sư Hư Vân lão Hòa Thượng, thực hành chỉ thị của Ðức Phật A-Di-Ðà và Bồ Tát Quan Thế Âm, hoằng pháp độ chúng sanh hữu thiện duyên.
Nam Mô A-Di-Ðà Phật